Friday, October 30, 2015

Quan niệm về "giấc mơ" của Carl Jung


Giấc mơ (dreams). Biểu hiện độc lập, ngẫu nhiên của vô thức; mảnh vụn của hoạt động tâm lý không chủ tâm, vốn chỉ đủ ý thức để có thể tái hiện trong trạng thái thức.

Các giấc mơ không phải là những câu chuyện được thêu dệt một cách chủ tâm, chủ ý; chứng là những hiện tượng tự nhiên, không có gì khác ngoài những gì chúng biểu hiện ra. Chúng không lừa mị hay dối trá, chúng không bóp méo hay che giấu… Chúng luôn tìm cách bộc lộ điều gì đó mà cái tôi không biết và cũng không hiểu. 

Dưới hình thái biểu tượng, giấc mơ ghi lại hiện trạng tâm thức từ góc nhìn của vô thức.

Bởi ý nghĩa của hầu hết giấc mơ không đi theo những khuynh hướng của tâm trí ý thức mà lại bộc lộ ra nhiều đường hướng khác biệt của riêng chúng, chúng ta phải giả định rằng vô thức, cái nôi của những giấc mơ, có một chức năng độc lập. Đây là cái mà tôi gọi là sự tự chủ của vô thức. Các giấc mơ không chỉ bất tuân ý chí của ta mà còn đứng ở thế đối lập lại với những chủ định ý thức của ta. 

Jung thừa nhận rằng trong một số trường hợp các giấc mơ có chức năng ước muốn đạt được và bảo toàn giấc ngủ (theo quan điểm của Freud) và nỗ lực mang tính trẻ con nhằm có được quyền lực (theo quan điểm của Adler), nhưng ông nhấn mạnh vào nội dung biểu tượng và vài trò bù trừ của nó trong cơ chế tự điều chỉnh của tâm thức: chúng tỏ lộ những phương diện mà thông thường người ta không nhận thức được, chúng bộc lộ hững động cơ vô thức vận hành trong các mối quan hệ và đưa ra những quan điểm mới mẻ trong những tình huống xung đột.

Về điểm này, có ba khả năng có thể xảy ra. Nếu thái độ ý thức đối với các tình trạng đời sống phần lớn là cực đoan một chiều, thì giấc mơ sẽ ở chiều hướng ngược lại. Nếu ý thức có lập trường khá là gần với “trung đạo”, thì giấc mơ sẽ thoái mái theo những đường hướng khác biệt. Nếu thái độ ý thức là đúng đắn (thỏa đáng) thì giấc mớ sẽ trùng khớp với và nhấn mạnh vào khuynh hướng này, dù nó không còn sự tự chủ của riêng mình.

Dưới cái nhìn của Jung, mỗi giấc mơ là một vở kịch nơi nội tâm.

Về cơ bản thì toàn thể công trình giấc mơ là chủ quan, và giấc mơ là rạp hát mà trong đó người nằm mơ chính là sân khấu, người đóng vai, người nhắc vở, người sản xuất, người sáng tác, người xem và người phê bình. 

Khái niệm này tạo cơ hội cho sự ra đời của phương pháp giải mộng trên bình diện chủ quan, nơi mà mọi hình ảnh trong mơ đều được coi như là những cuộc trình diễn thông qua biểu tượng của các thành tố trong nhân cách người nằm mơ. Việc giải mộng trên bình diện khác quan thì lại chắp nối toàn bộ những hình ảnh trong mơ với những con người và tình huống nơi thế giới bên ngoài.

Nhiều giấc mơ có cấu trúc như một vở kịch kinh điển. Chúng có phần mở đầu (địa điểm, thời gian và các nhân vật), cho biết tình huống ban đầu của người nằm mơ. Trong giai đoạn hai, có một sự phát triển trong kịch bản (bắt đầu có diễn biến). Giai đoạn ba dẫn đến cực điểm hay cao trào (sự kiện quyết định xảy ra). Giai đoạn cuối cùng là thoái trào, kết quả hay giải pháp (nếu có) của diễn biến trong mơ.

Nguồn: David Sharp, Jung Lexicon
Đỗ Hoàng Tùng dịch

Tuesday, September 29, 2015

Khái niệm "chủ động tưởng tượng" của Carl Jung

Hai Frida - Frida Kahlo
Tác giả tự vẽ chân dung mình trước và sau khi bị chồng phản bội.



Chủ động tưởng tượng (active imagination). Một phương pháp chuyển hóa những nội dung vô thức (giấc mơ, huyễn tưởng,...) thông qua một vài hình thái bộc lộ, phơi bầy bản thân. (Xem thêm mục từ Chức năng siêu việt.)

Mục tiêu của phương pháp chủ động tưởng tượng là tạo cơ hội cho những phương diện khác nhau của nhân cách - vốn thường không được lắng nghe - được cất lên tiếng nói, qua đó thiết lập một đường dây truyền thông giữa ý thức và vô thức. Ngay cả khi sản phẩm cuối cùng - một bức vẽ, một bức tranh, một câu chuyện, một bức điêu khắc, một vũ điệu, một bản nhạc… - không được diễn giải ý nghĩa, thì vẫn có một cái gì đó - đóng góp vào quá trình chuyển hóa tầng ý thức - sẽ vẫn tiếp diễn giữa người sáng tạo và cái được tạo ra. 

Giai đoạn đầu tiên của phương pháp chủ động tưởng tượng cũng giống như nằm mơ khi đang mở mắt vậy (mơ tỉnh). Nó có thể diễn ra theo một cách tình cờ, tự nhiên hoặc người ta có thể chủ động tạo ra nó. 

Ở trường hợp tự mình chủ động, bạn lựa chọn lấy một giấc mơ, hay một vài ảnh tượng huyễn tưởng khác, và tập trung tư tưởng vào nó bằng cách giữ lấy hình ảnh ấy trong tâm và nhìn vào nó. Bạn cũng có thể tận dụng một tâm trạng không vui nào đó làm khởi điểm, và sau đó cố gắng để ý xem nó tạo ra loại ảnh tượng huyễn tưởng nào, hay ảnh tượng nào phản ánh tâm trạng buồn chán. Sau đó bạn có thể “ấn định” hình ảnh đó vào trong tâm bằng sức tập trung tư tưởng. Thường thì nó sẽ biến đổi, bởi việc chỉ riêng quán chiếu nó thôi cũng sẽ khơi dậy sức sống trong nó. Mọi sự biến chuyển luôn cần được cẩn trọng ghi nhận, bởi chúng phản ánh những tiến trình tâm lý trong tầng ngầm vô thức (unconscious background), biểu hiện ra dưới dạng ảnh tượng xuất phát từ chất liệu ký ức của tầng ý thức. Bằng cách này, ý thức và vô thức được nối kết, giống như thác nước nối liền đỉnh thác trên cao và chân thác dưới thấp.

Giai đoạn thứ hai, thay vì chỉ đơn thuần quan sát những ảnh tượng này, ta sẽ chủ động vào giao lưu với chúng, đưa ra đánh giá chân thực nhất về việc chúng có ý nghĩa như thế nào với ta, rồi đi đến cam kết bắt buộc về mặt trí năng và đạo đức để ứng xử theo những hiểu biết đã nhận ra. Đây là một sự chuyển dịch từ thái độ nhận thức, thẩm mỹ sang thái độ xem xét, phán đoán.

Dù ở một mức độ nào đó, người ta nhìn vào từ bên ngoài, nhưng công bằng mà nói, thì anh ta cũng là một nhân vật đang khóc cười trong vở kịch của tâm thức. Nhận thức này là điều cực kỳ cần thiết và đánh dấu một bước tiến quan trọng. Chừng nào người ta còn đơn thuần nhìn vào những ảnh tượng ấy thì chừng đó người ta còn giống như chàng hiệp sĩ Parsifal ngu ngơ, người đã quên không đưa ra câu hỏi hệ trọng nhất bởi anh ta không ý thức được chính sự tham gia của mình vào câu chuyện. (Ở đây Jung ám chỉ tới huyền thoại Chén thánh. Câu hỏi mà Parsifal đã bỏ lỡ là: Chén thánh phụng sự cho ai?) Nhưng nếu bạn nhận thức được sự tham dự của mình, thì bạn phải bước vào câu chuyện với chính con người thật của mình, giống như thể bạn là một trong những nhân vật huyễn tưởng đó, hay nói đúng hơn, như thể vở kịch đang diễn ra trước mắt bạn là thật.

Thái độ xem xét, đánh giá ở đây hàm ý sự chủ động can dự vào trong những tiến trình huyễn tưởng, vốn bổ khuyết cho trạng thái ý thức của cá nhân và đặc biệt là của tập thể. Mục tiêu hiển nhiên của sự can dự này là để tích hợp những gì vô thức tỏ lộ, chuyển hoá những nội dung bổ khuyết, và qua đó tạo ra ý nghĩa trọn vẹn, điều duy nhất giúp cho cuộc đời trở nên đáng sống, cho không chỉ vài người, nếu có thể.

Nguồn: David Sharp, Jung Lexicon
Đỗ Hoàng Tùng dịch

Tuesday, August 25, 2015

Khái niệm "mặc cảm" của Carl Jung



Mặc cảm* (Complex). Một tổ hợp những tư tưởng hay hình ảnh nhuốm màu cảm xúc. (Xem thêm mục từ Thí nghiệm liên tưởng từ vựng.)

Mặc cảm là hình ảnh của một tình huống tâm lý mang nặng cảm xúc và hơn nữa, nó hoàn toàn không tương hợp với thái độ quen thuộc của dòng ý thức.

Vương đạo (via regia) để đi vào vô thức, không phải là giấc mơ như Freud vẫn tưởng, mà lại là mặc cảm. Chính mặc cảm là vị kiến trúc sư tạo nên những giấc mơ và những chứng bệnh tâm lý. Con đường đó cũng chẳng hề vương giả, bởi con đường mà mặc cảm tỏ lộ ra cho ta là con đường đất gồ ghề, cực kỳ quanh co khúc khuỷu, chẳng mấy ai đi.

Nói một cách chính thức, mặc cảm là những tư tưởng chất chứa nhiều cảm xúc được tích tập qua bao năm tháng xung quanh một mẫu tượng (archetype), chẳng hạn là “mẹ” và “cha.” Khi mặc cảm đã được hình thành, thì cảm xúc sẽ luôn song hành cùng chúng. Lúc nào chúng cũng tương đối tự chủ. Mặc cảm can dự vào ý định của lý trí và quấy nhiễu hoạt động của dòng ý thức. Chúng gây ra trình trạng rối loạn ký ức và cản trở dòng chảy của sự liên tưởng. Chúng xuất hiện và biến mất theo quy luật của riêng chúng. Trong nhất thời, chúng có thể chiếm hữu dòng ý thức, hay một cách vô thức tác động đến lời nói và việc làm của ta. Nói tóm lại, mặc cảm hành xử như một thực thể độc lập.

Trên thực tế, mặc cảm là những “mảnh hồn” (splinter psyches). Nguyên nhân nguồn cội của chúng thường là những cái mà người ta gọi là chấn động tâm lý, tình cảm hay như những điều đại loại như vậy, làm cho một mảnh hồn nhỏ bị tách rời ra khỏi tâm thức toàn thể.

Hiển nhiên là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất hình thành nên mặc cảm làm xung đột đạo đức, vốn bắt nguồn từ việc rõ ràng người ta không thể nào khẳng định được toàn vẹn bản chất con người mình.

Ngày nay ai cũng biết rằng mọi người đều “sở hữu những mặc cảm.” Nhưng điều được ít người biết đến mà lại quan trọng hơn nhiều về mặt lý thuyết, là những mặc cảm cũng "sở hữu" chúng ta.

Jung nhấn mạnh rằng những mặc cảm tự bản chất không có gì là tiêu cực cả, chỉ có hệ quả mà chúng để lại là tiêu cực mà thôi. Cũng tương tự như việc hạt nhân và phân tử là những cấu phần vô hình tạo nên sự vật, những mặc cảm là những tổ hợp tạo dựng lên ngôi nhà tâm thức và là cội nguồn của tất cả các loại cảm xúc của con người.

Mặc cảm là những tiết điểm hay tiêu điểm của đời sống tâm lý mà ta sẽ không muốn sống thiếu chúng; quả thực, ta không nên sống mà thiếu chúng, bởi nếu không hoạt động tâm lý sẽ đi đến chỗ tịch tịnh.

Hiển nhiên là, những mặc cảm là kết quả của một loại tự ti theo ý nghĩa khái quát nhất… nhưng khi bạn có những mặc cảm thì điều đó không nhất thiết cho thấy bạn tự ti. Điều đó chỉ có nghĩa rằng một cái gì đó bất ổn, chưa được chuyển hóa, đối nghịch đang tồn tại, có thể giống như một sự trở ngại, nhưng cũng như một sự động viên, khuyến khích ta cần phải nỗ lực hơn nữa để có thể, biết đâu đấy, đạt được bước tiến, hay thành tựu mới.

Ở một mức độ nào đó, cực đoan, biên kiến là điều không thể tránh khỏi, và cũng cùng với mức độ ấy, mặc cảm là cũng là điều không thể tránh khỏi.

Hệ quả tiêu cực của mặc cảm mà người ta thường hay trải qua là một sự lệch lạc, méo mó trong một hay vài chức năng tâm lý (cảm tính, lý tính, trực giác và tri giác). Chẳng hạn, thay vì đưa ra đánh giá hợp tình hợp lý và có thái độ ứng xử sao cho phù hợp, thì người ta phản ứng theo sự sai khiến của mặc cảm. Chừng nào người ta còn chưa nhận diện/ý thức được những mặc cảm của mình, thì chừng đó người ta còn có thể bị chúng chi phối.

Việc có những mặc cảm không đồng nghĩa với việc bạn bị nhiễu tâm… và việc chúng gây ra đau khổ không chứng tỏ được rằng chúng là rối loạn bệnh lý. Đau khổ không phải là bệnh tật; nó chỉ là thái cực đối lập với hạnh phúc. Một mặc cảm chỉ trở thành bệnh lý khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta không có nó.

Việc đồng hóa với một mặc cảm, đặc biệt là ẩn nam/ẩn nữ (anima/animus) và bóng âm (shadow), là nguyên nhân thường thấy của chứng nhiễu tâm. Mục tiêu của phân tích tâm lý lúc này không phải là trừ bỏ mặc cảm đó đi - giả sử rằng việc ấy có thể làm được - mà là giảm thiểu đến mức thấp nhất những hệ quả tiêu cực của nó thông qua việc nhận ra nó đóng vai trò gì trong cung cách và thái độ ứng xử của ta.

Người ta chỉ có thể thực sự thoát ra khỏi một mặc cảm khi người ta cho phép nó được giải tỏa ra một cách trọn vẹn nhất. Nói cách khác, nếu ta muốn trưởng thành hơn, ta phải quay trở về với chính mình và nốc cạn chính thứ cặn bã mà, bởi mặc cảm chi phối, ta đã tránh xa.

Nguồn: Daviđ Sharp, Jung's Lexicon, Complex
Đỗ Hoàng Tùng dịch


(*) Chữ "complex" bắt nguồn từ ngữ căn com- mang nghĩa cùng với, và ngữ căn plex mang nghĩa tết, bện kết. Vì thế, nghĩa đen của chữ này có nghĩa là xoắn kết lại với nhau. Còn nghĩa bóng là "không dễ gì phân tích." Như vậy, chữ này đồng nghĩa với chữ phức 複, vốn mang nghĩa rườm rà, phồn tạp, chồng chất. Từ đó, ta có thể dịch complex thành "phức cảm", tức một cảm xúc rắc rối, khó phân định rõ ràng. Tuy nhiên, trong ngữ cảnh tâm lý học Carl Jung, ta còn có thể dịch complex thành "mặc cảm", tức một cảm xúc âm thầm, lặng lẽ (mặc 默) ngấm ngầm chi phối ta.



Monday, August 3, 2015

Mặc cảm mẫu tử giữa mẹ và con trai


Tóm tắt

Bài viết này sẽ nói về một kiểu quan hệ phổ biến: người đàn ông đóng lại “năng lực cảm nhận” do những trải nghiệm về cha mẹ trong những năm tháng đầu đời. Nguồn gốc của kiểu quan hệ này là khi một đứa bé trai cố gắng thay thế vai trò người cha để đáp ứng những nhu cầu tình cảm của người mẹ, với cái giá phải trả là bỏ qua những nhu cầu của chính nó. Song hiển nhiên là dù đã cố gắng rất nhiều, mức độ đòi hỏi của người mẹ (về mặt cảm xúc) luôn vượt mức khả năng đáp ứng của nó. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới khả năng “kết nối với cảm xúc bản thân” của đứa trẻ sau này. Đây là vấn đề mà rất nhiều người đàn ông ngày nay vướng phải.

Dẫn nhập

Các bé trai học được cách cư xử, quan hệ với phụ nữ chủ yếu là thông qua mối quan hệ với người mẹ và qua quan sát mối quan hệ giữa cha mẹ. Nếu mối quan hệ giữa cha mẹ có vấn đề mâu thuẫn hay xa cách về mặt tình cảm, mối quan hệ của bé trai với người cha cũng có thể bị ảnh hưởng. Rất có thể đứa trẻ sẽ gắn bó về mặt cảm xúc với mẹ theo hướng đóng lại năng lực cảm nhận, điều này sẽ ảnh hưởng đến sự nam tính và cảm thức về một cái tôi độc lập của trẻ sau này. 

Nếu những nhu cầu tình cảm của người mẹ không được người cha đáp ứng, thì rất có thể người phụ nữ đó, một cách vô thức, sẽ cố gắng đáp ứng những nhu cầu ấy bằng cách dùng chính con trai mình như một người thay thế. Những xúc cảm thất vọng của người mẹ trong mối quan hệ với người cha, lúc này sẽ được truyền tải trọn vẹn tới đứa con trai. Đứa con trai cảm nhận sâu sắc sự thất vọng của mẹ nó với bố nó. Và để phản ứng lại những xúc cảm này, đứa con trai mong muốn và cố gắng trở thành một “người đàn ông bé nhỏ hoàn hảo” – người sẽ không làm mẹ nó thất vọng như cha nó đã từng. Trong những năm tháng đầu đời, trái tim của đứa bé trai vốn rộng mở, và lẽ tự nhiên là chúng mong muốn được trở thành “người hùng” trong mắt người mẹ, và lấp đầy sự trống trải của người mẹ với tất cả tình yêu của chúng. Chúng học được cách để làm hài lòng những bà mẹ, nhưng với cái giá phải trả là những nhu cầu của chính chúng, thì lại bị chúng phớt lờ đi.

Một hệ quả nữa là, về mặt cảm xúc, chúng rất khó gần gũi với người cha, song rất coi trọng mối liên kết đặc biệt với người mẹ khi không có sự hiện hữu của người cha. Nhưng điều này cũng có cái giá của nó. 

Đứa bé trai không nhận thức được rằng nó đang theo đuổi một nhiệm vụ bất khả thi – một nhiệm vụ mà chắc chắn nó sẽ thất bại. Sẽ là quá đáng với một đứa trẻ khi đòi hỏi nó phải đáp ứng được hoàn toàn những nhu cầu tình cảm của người mẹ. Cô ấy cần một người đàn ông trưởng thành để làm điều đó. Đứa trẻ khi ấy sẽ bị giằng xé giữa các mặt cảm xúc. Nó không thể là chính nó, nhưng cũng không thể trở thành người (mà nó nghĩ là) mẹ nó muốn nó trở thành. Hậu quả là từ khi còn rất nhỏ, đứa trẻ đã vô thức lựa chọn để trở thành người phù hợp với mong muốn của mẹ chúng, thay vì phù hợp với mong muốn của chính chúng. 

Người cha đã quá tắc trách khi đã không theo sát người mẹ để cùng đem đến cho đứa trẻ một mối liên kết lành mạnh với cha mẹ, để đứa bé trai có thể từ đó mà tiếp tục phát triển “nam tính” lành mạnh sau này. Đứa bé trai buộc phải xa rời sự nam tính nơi tự thân để có thể làm tốt vai trò của mình. Một người cha xa cách và lạnh lùng, một người mẹ luôn khát khao tình cảm, cùng với hình mẫu đàn ông trong văn hóa xã hội - tất cả những điều đó về bản chất đã khuyến khích đứa trẻ lớn lên theo cách đóng chặt trái tim lại và phớt lờ cảm xúc của chính nó đi. 

Thái độ ứng xử của người đàn ông bị "cưỡng đoạt" trái tim 

Trong cuộc sống sau này, khi đứa bé trai đã trở thành một người đàn ông trưởng thành, thái độ của anh ta rất có thể có xu hướng phát triển theo những kiểu sau: 

Anh ta cảm thấy bản thân không đủ tốt. Nếu tận sâu đáy lòng khi còn là một đứa bé, anh ta cảm thấy bản thân không đủ tốt để mẹ mình hài lòng, thì khi đã là một người đàn ông trưởng thành, anh ta cũng sẽ thấy bản thân không đủ tốt để người bạn đời hài lòng. Anh ta trở nên rất nhạy cảm với những lời phê bình và đánh giá, bởi chúng đang khiêu khích “sự nam tính” của bản thân. Anh ta cảm thấy anh ta cần trở nên hoàn hảo, và cảm thấy rất khó khăn để có thể thừa nhận sai lầm mà anh ta đã gây ra trong mối quan hệ. 

Anh ta sợ phải thấy phụ nữ thất vọng. Anh ta không thể chịu được cảnh bạn đời thất vọng, một phần bởi anh ta coi hạnh phúc của bạn đời là trách nhiệm của bản thân. Khi còn là một đứa trẻ, anh ta cho rằng nguyên nhân mẹ mình không hạnh phúc là do mình, và lúc đó anh ta tin rằng anh ta có trách nhiệm xoa dịu cảm xúc của mẹ mình bằng cách làm bà ấy hài lòng. 

Anh ta cố gắng làm phụ nữ hài lòng để khỏi xảy ra xung đột. Anh ta bỏ qua những mong muốn của bản thân để làm phụ nữ hài lòng. Phụ nữ thường sẽ nhận ra ngay lập tức khi một người đàn ông cố gắng thỏa mãn họ để tránh xung đột. Họ sẽ thấy ở đó sự giả tạo. Phụ nữ cảm thấy bị cho ra rìa khi họ nhận ra anh ta đang giấu giếm cảm xúc thực. Cô ta không thể nào nhận thấy một chút nào phản ứng mạnh mẽ của đàn ông từ phía anh ta khiến cô phải phiền lòng. Và khi đó, cô ấy cảm thấy như đang bị khước từ và bỏ rơi. Nó giống như việc anh ta hét thẳng vào mặt cô ta rằng: “em phiền nhiễu quá!” Đây lại thường là điều mà người nữ thường cảm thấy khi còn nhỏ. 

Anh ta cảm thấy quá sức chịu đựng những mong muốn của người bạn đời. Anh ta thường cảm thấy như đang bị áp lực nặng nề trong việc cố gắng đáp ứng những mong muốn của người bạn đời. Anh ta không thể bày tỏ những mong muốn của bản thân bởi những kinh nghiệm trong quá khứ dạy anh ta rằng, đừng để ý tới những mong muốn của bản thân, mà hãy chỉ cố gắng đáp ứng những mong muốn của mẹ anh ta mà thôi. Do đó, nhìn qua thì tưởng anh chàng này có rất ít mong muốn, nhưng thực chất là vì anh ta đang cố kiềm chế chúng lại. 

Anh ta bực bội trước những mong muốn của người bạn đời. Trong vô thức, anh ta cảm thấy giận dữ và khó chịu khi phải cố gắng đáp ứng những mong muốn của mẹ anh ta, và anh ta coi tất cả phụ nữ trên đời này đều giống mẹ anh ta ở một góc độ nào đó. Anh ta tin rằng anh ta đang cố gắng làm tất cả những điều cần phải làm để vun đắp mối quan hệ, và tuy bản thân anh ta thì tự thấy những việc anh ta làm chẳng có vấn đề gì cả, nhưng thực tế thì anh ta đã sai lầm. Anh ta quên không nói những chuyện quan trọng với người bạn đời, hoặc tìm cách chê bai người bạn đời hay dè bỉu mối quan hệ. Và nếu hỏi anh ta rằng sao anh lại phớt lờ người bạn đời của mình, thì có lẽ trong câu trả lời anh ta sẽ không hề nhắc đến sự oán giận của bản thân. 

Anh ta cảm thấy tội lỗi. Anh ta cảm thấy rất mâu thuẫn trong mối quan hệ với người mẹ, việc này là hệ quả của hai luồng cảm xúc trái chiều: tình yêu với người mẹ và cảm giác tiêu cực khi cho rằng người mẹ đã đòi hỏi anh ta quá nhiều. Do đó sau này khi đã trưởng thành, ngay cả với mối quan hệ hiện tại, anh ta cũng sẽ trải nghiệm nó với những cảm xúc mâu thuẫn y hệt như hồi nhỏ. Anh ta gặp khó khăn trong việc xử lý hai luồng cảm xúc “yêu”, “ghét” khi đối mặt với người bạn đời. Khi kìm giữ lại những cảm xúc “ghét”, anh ta đồng thời cũng kìm giữ lại cả những cảm xúc “yêu.” Lâu dài, anh ta cảm thấy bản thân không xứng đáng với tình yêu của người bạn đời, và muốn rời bỏ cô, như một cách bảo vệ cô khỏi “mặt tối” của chính anh ta. 

Anh ta bị ức chế, chán chường, mệt mỏi, mất hết sức sống. Anh ta kìm giữ lại những cảm xúc và năng lượng của bản thân, hoặc chuyển hóa chúng vào công việc. Những người đàn ông đè nén cảm xúc của bản thân xuống theo cách này, thường sau đó sẽ rơi vào trạng thái trầm cảm ẩn tàng. 

Quá trình điều trị hàn gắn "trái tim bị cưỡng đoạt"

Tôi muốn nêu ra một vài phương hướng về cách mà các cặp vợ chồng có thể giải quyết với mặc cảm này trong quá trình tham vấn cho mốiđiều giải . Điều đầu tiên cần nói ở đây đó là chúng ta cần nhìn nhận vấn đề trên quan điểm rằng, vấn đề này nằm ở mối quan hệ giữa hai người, chứ không chỉ do một cá nhân gây ra. Do đó, chúng ta cần xem xét thái độ, hành vi và kiểu mẫu mối quan hệ của cả hai bên: cả người nam lẫn người nữ, để kết luận mức độ phù hợp giữa họ là bao nhiêu. Chúng ta cần tìm hiểu tại sao một cách vô thức, người nữ lại cảm thấy bị cuốn hút bởi người nam – ngay cả khi anh ta đã đóng chặt trái tim lại, và cô ta cần làm gì để có thể hàn gắn những trải nghiệm trước kia trong mối quan hệ gia đình của chính bản thân cô. Chúng ta có thể đặt ra câu hỏi rằng trong mối quan hệ, điều gì mà hai người đã cùng cố gắng để đạt được kết quả tốt nhất? Và ta sẽ thấy rằng, so sánh một cách tương đối, việc tương tác với cả hai bên cùng lúc để xử lý “mâu thuẫn”, luôn tỏ ra có hiệu quả hơn nhiều so với việc chỉ tương tác với một cá nhân – một phía. 

Mục đích của bài viết này là tập trung vào những “mâu thuẫn” trong mối quan hệ của người đàn ông. Dưới đây sẽ liệt kê một vài thách thức mà anh ta có thể sẽ phải đối mặt trong quá trình đương đầu với hội chứng “trái tim bị cưỡng đoạt.” 

Anh ta nhận ra cung cách ứng xử hiện tại của bản thân hình thành từ những trải nghiệm trong quá khứ 

Trong cuộc sống gia đình xuyên suốt những năm tháng đầu đời, mỗi cá nhân dù ít hay nhiều đều có những “vấn đề mắc mớ". Ở một mức độ nào đó, sự hấp dẫn lẫn nhau giữa hai cá thể bắt nguồn từ sự tương hợp mang tính vô thức giữa hai người. (Người nam tiếp tục đóng vai "người chăm sóc", còn người nữ - thay thế bà mẹ - đóng vai người thiếu thốn, khao khát tình cảm. - ND) Thật thất vọng khi nhận ra rằng thực chất cả hai cá thể đều chỉ đang cố gắng tái hiện lại “hình ảnh gia đình trong những năm tháng đầu đời” của bản thân ở mối quan hệ hiện tại. Việc nhận ra sự thật này có thể gây tác động lớn tới cá thể nam, làm thay đổi hệ thống quan điểm và nhận thức của anh ta, bởi lúc này anh ta đã hiểu bản chất của những mối quan hệ, thực ra chỉ là một khối liên kết vô thức – thứ đang cho anh ta cơ hội để trở nên trọn vẹn, đặc biệt là về mặt cảm xúc. 

Và giờ, thay vì đổ lỗi cho người bạn đời của mình vì không giống “cha mẹ hoàn hảo của anh ta”, anh ta bắt đầu xem xét điều gì đang diễn ra, thông qua con mắt và cảm xúc đến từ quá khứ. Việc nhận diện ra mối liên hệ giữa những gì anh ta đang trải nghiệm trong mối quan hệ hiện tại và những gì anh ta từng cảm thấy trong “cuộc sống gia đình những năm tháng đầu đời” giúp anh ta “ý thức” được những gì vốn “vô thức”. Điều này sẽ giúp anh ta không còn bị ám ảnh hay bị điều khiển bởi quá khứ nữa. 

Với nhiều người đàn ông, có thể rất khó để khiến họ hiểu và công nhận rằng có sự liên hệ giữa bạn đời anh ta và mẹ anh ta. Họ không hình dung nổi liệu có gì liên quan giữa hai người đó. Họ có thể vẫn nghe bạn nói đấy, nhưng sẽ cho rằng bạn chỉ đang cố lòe họ với những “thuật ngữ tâm lý” nghe có vẻ phức tạp để làm tăng tính thuyết phục hơn thôi. Sẽ luôn tồn tại một cơ chế cố gắng bảo vệ những “hình ảnh về cha mẹ anh ta” trong tâm trí anh ta. Anh ta cần cân nhắc để hiểu rõ việc cha mẹ anh ta đã làm tốt nhất những gì họ có thể là một chuyện, còn sự thiếu thốn tình cảm trong mối quan hệ giữa họ đã gây tác động lớn tới anh ta thì lại là chuyện khác. Do đó, việc xem xét cung cách ứng xử trong những năm tháng đầu đời ảnh hưởng thế nào tới cách anh ta ứng xử với người bạn đời hiện tại là rất quan trọng. 

Anh ta kiểm soát được nỗi sợ hãi trong mình

Anh ta biết cách kiểm soát nỗi sợ hãi bị cảm xúc lấn át. Anh ta nhận ra rằng người bạn đời của anh ta mạnh mẽ (về mặt cảm xúc) hơn anh ta tưởng. Là một người hoàn toàn trưởng thành, cả về mặt tinh thần và thể xác, anh ta không cần dựa vào việc cố gắng xoa dịu cô ta để được an ổn nữa. Tất nhiên, anh ta vẫn hoàn toàn có thể cố gắng làm cho cô ấy cảm thấy hạnh phúc, miễn là anh ta hiểu rằng, khi cô ấy thất vọng, buồn chán hay lo âu thì không phải lúc nào cũng là lỗi của anh ta, và anh ta không cần phải cảm thấy mặc cảm hoặc tự trách bản thân. Anh ta không phải chịu trách nhiệm về hạnh phúc của cô ấy. (Tất nhiên, đây chỉ là một cách nói tương đối, không có nghĩa là người nam không cần cố gắng làm người nữ hạnh phúc, mà chỉ muốn nhấn mạnh là người nam không nên tự trách hoặc đổ lỗi cho bản thân khi thấy bạn đời của mình không hạnh phúc. Nguyên nhân khiến cô ấy không hạnh phúc có rất nhiều. - ND) 

Anh ta cảm nhận được cảm xúc của nàng 

Anh ta học cách lắng nghe và cảm nhận cảm xúc thực sự của cô ấy mà không coi đó là chuyện của mình. Anh ta đã biết cách phân biệt đâu là những chuyện anh ta cần chịu trách nhiệm, đâu là những chuyện thuộc về quá khứ của cô ấy. Đồng thời anh ta cũng nhận ra rằng, lắng nghe những gì cô ấy nói và cảm nhận, luôn tốt hơn là chỉ suy xét bằng lý trí mà không cảm nhận bằng cả trái tim. 

Anh ta điều chỉnh lại thái độ và hành vi của bản thân 

Anh ta nhận ra rằng người bạn đời của anh không thực sự cố ý muốn chỉ trích hay xỉa xói anh. Cô ấy chỉ muốn cảm xúc của bản thân được thừa nhận mà thôi. Cô ấy hiểu những vấn đề nào cần được chú ý trong việc duy trì mối quan hệ, và mong muốn anh ta điều chỉnh lại bản thân bằng cách nói ra những gì anh ta thực sự nghĩ và cảm thấy, hơn là suốt ngày lặp đi lặp lại cụm từ “xin lỗi” vô nghĩa và sáo rỗng để rồi sau đó vẫn chứng nào tật nấy. 

Anh ta trở nên nam tính, mạnh mẽ hơn 

Anh ta nhận ra rằng người bạn đời của anh không thể tạo ra, phá vỡ hoặc lấy đi sự nam tính (có sẵn) trong con người anh ta. Từ sự giác ngộ này, anh ta có được lòng can đảm để sẵn sàng xuất hiện bên cạnh cô và tiếp nhận cô khi cô ấy chán nản hay thất vọng. Anh ta không cần phải cố gắng bảo vệ “sự nam tính” của bản thân bởi thực chất không có gì đe dọa nó cả. Anh ta tiếp nhận sự hỗ trợ từ những người đàn ông khác để trở nên nam tính, mạnh mẽ hơn và tái kết nối tới sự nam tính trong minh. 

Anh ta tái kết nối tới cảm xúc thực sự của mình

Anh ta học được cách thể hiện cảm xúc, suy nghĩ và mong muốn thực sự của bản thân. Sau nhiều lần chú ý mỗi khi “mất kết nối” với người bạn đời, anh ta trở nên thông minh và tinh tế hơn khi điều chỉnh cảm xúc, nhờ đó anh ta vẫn có thể có “khoảng nghỉ” cho riêng mình mà không khiến cho người bạn đời cảm thấy bị bỏ rơi. 

Anh ta hợp nhất được với “mặt tối” bên trong mình 

Những cảm xúc bị anh ta cố gắng kìm nén, sẽ quay lại “cắn trả” và điều khiển anh ta. Nhờ hiểu được điều này, anh ta nhận ra rằng “bản năng hoang dã giống đực / mặt tối” bên trong mình đóng vai trò rất lớn trong việc đem lại “sinh lực” và “đam mê” cho mối quan hệ. Khi anh ta thể hiện ngày càng nhiều xúc cảm của bản thân hơn, thì đồng thời cũng sẽ có càng nhiều chỗ cho cảm xúc “yêu” và “ghét” hơn. Anh ta học được cách ứng phó với tổn thương và nỗi sợ bị tổn thương. Anh ta “tái kết nối” tới cảm xúc thực sự của bản thân và rộng mở trái tim mình. Kết quả là, anh ta chấp nhận bản thân là một phần của mối quan hệ, những hành động của anh ta xuất phát từ thâm tâm chứ không còn là “sự tái hiện vô thức” cách anh ta phản ứng với mẹ mình nữa. 

Kết luận

Những cung cách ứng xử đã ăn sâu bám rễ sẽ đòi hỏi nhiều thời gian và công sức phân tích hơn. Công việc này là một quá trình lâu dài, chứ không đơn thuần chỉ là “mì ăn liền” – một “phép sửa nhanh chóng.” Quá trình tham vấn cho quan hệ mang lại cho chúng ta cơ hội để tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn những gì đang diễn ra trong mối quan hệ. Đây là một quá trình vô cùng hữu dụng trong việc nhận diện ra những cung cách ứng xử nào là kết quả của những trải nghiệm trong quá khứ, tiêu trừ sự oán giận và đưa ra cách nhìn mới về bản chất mối quan hệ. Những trải nghiệm có được khi tham gia quá trình tham vấn mối quan hệ, ví dụ như việc cùng nhau tìm ra giải pháp trong và giữa những buổi tham vấn sẽ giúp cho các cặp đôi cảm thấy gắn bó với nhau hơn, và cảm thấy dễ dàng hơn khi cùng nhau giải quyết mọi việc. 

Nhữ Duy Anh dịch

Tuesday, July 7, 2015

Tóm tắt các hệ quả của tổn thương tâm lý thời thơ ấu

  1. Lụy thuộc. Không có một bản sắc, cá tính rõ ràng, hay thay đổi theo ý kiến người khác. Tâm hồn mỏng manh, dễ bị cảm xúc chi phối. Hay thương người, nhưng cũng hay tự ái, tủi thân (thương mình). Nghĩ mình là nạn nhân của cuộc đời. Cảm giác bất lực, tuyệt vọng. (Chi tiết xem ở đây.)
  2. Hung hăng & giận dỗi. Quá nhạy cảm, dễ phản ứng với những điều không ưng ý. Biểu hiện ra bên ngoài: nếu là người mạnh mẽ, dễ gây hấn, động chân động tay, có xu hướng phá hủy các mối quan hệ; nếu là người yếu mềm, dễ giận dỗi. (Chi tiết xem ở đây.)
  3. Ngây thơ & hoài nghi. Thường giao động giữa hai thái cực: hoặc quá dễ dàng tin vào những gì ngừời khác nói mà không hề nghi ngờ, thắc mắc; hoặc quá ngờ vực, đa nghi, luôn nghĩ người khác đang chực chờ lợi dụng, ám hại mình. Hoặc tin rằng một phép màu nào đó sẽ khiến mình đổi đời; hoặc tin rằng mình chẳng thể làm gì để cuộc sống tốt đẹp hơn. (Chi tiết xem ở đây.)
  4. Lặp lại quá khứ đau khổ. Các vấn đề trong mối quan hệ từ thời thơ ấu tiếp tục “tái diễn” trong mối quan hệ hiện tại. Trong thời thơ ấu bị người khác đối xử tệ hại ra sao, thì khi trưởng thành, người ta sẽ “tiếp thu” và tự đối xử với mình tệ hại như thế. (Chi tiết xem ở đây.)
  5. Rối loạn ái kỷ. Luôn cảm thấy thiếu thốn tình yêu thương, sự chăm sóc. Đòi hỏi sự quan tâm, chiều chuộng quá mức từ những người thương yêu mình. Để rồi, đến một lúc nào đó, thất vọng về tất cả mọi người. Tìm kiếm một cuộc sống vật chất đủ đầy và danh tiếng để có được cảm giác giá trị, sự tự tin. (Chi tiết xem ở đây.)
  6. Trầm cảm & nghiện ngập: Cảm giác cuộc sống vô nghĩa, trống vắng. Sống như diễn kịch, cốt chỉ để đáp ứng những mong đợi của xã hội. Thường rơi vào vòng xoáy nghiệp ngập sa đọa dẫn tới tự hủy hoại bản thân. (Chi tiết xem ở đây.)
  7. Khắc kỷ & phóng dật. Một số người quá nghiêm khắc với bản thân theo những nguyên tắc cứng nhắc. Còn lại đa số là quá buông thả, phóng túng theo bản năng, sở thích. 
        (Chi tiết về từng chứng trạng, mời xem ở đây.)

Đỗ Hoàng Tùng

Một số phương pháp trị liệu tổn thương tâm lý thời thơ ấu



  1. Trị liệu bằng thôi miên: Qua tưởng tượng, người ta có cơ hội quay trở về và thay đổi những ký ức đau thương của mình. 
  2. Trị liệu bằng kể chuyện: Người ta luôn bị hấp dẫn bởi những câu chuyện., đặc biệt là trẻ con. Đối với đứa trẻ trong ta cũng vậy, được nghe kể và phân tích chuyện cổ tích có thể giúp cho những vết thương lòng phần nào được giải tỏa và hàn gắn. 
  3. Trị liệu bằng trò chơi: Dựa trên thực tế là trò chơi là phương tiện tự nhiên để đứa trẻ trong bạn bộc lộ ra. Thông qua các chất liệu như cát, đồ chơi, đứa trẻ trong bạn có cơ hội bộc lộ ra nhưng cảm xúc và vấn đề của mình thông qua các biểu tượng mà không phải đùng đến ngôn ngữ. 
  4. Trị liệu bằng viết thư: Qua bàn tay không thuận (thường là tay trái, vốn được chỉ huy bởi não phải - nơi chất chứa nhiều cảm xúc bị dồn nén), việc viết ra giúp cho đứa trẻ trong ta có cơ hội được trao đổi thông qua ngôn ngữ. Qua đó, nó có thể bộc lộ những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực. Viết ra cũng là cách để đứa trẻ trong ta hoạch định cho mình một cuộc sống tốt hơn. 
  5. Trị liệu bằng nghệ thuật: Tạo cơ hội cho đứa trẻ trong ta bộc lộ ra những tư tưởng và cảm xúc tiêu cực thông qua các bộ môn nghệ thuật sáng tạo như hội họa, điêu khắc, nhiếp ảnh, cắt dán... Chính quá trình sáng tạo nghệ thuật chứ không phải thành phẩm nghệ thuật có tác dụng hàn gắn tâm hồn. Ở đó nghệ thuật được coi là sự biểu hiện của cuộc độc thoại nội tâm của đứa trẻ trong ta, qua đó giải tỏa được những hiểu biết và niềm tin không còn hữu hiệu, đồng thời phục hồi lại niềm tin tưởng, hy vọng vào cuộc sống, cũng như sự tự tin, tự chủ và năng lực bản thân.
  6. Trị liệu bằng nhảy múa: Nhảy múa là một trong những cách bộc lộ cảm xúc căn bản. Nó được dùng để giải tỏa năng lượng của các cảm xúc ra bên ngoài. Trị liệu bằng nhảy múa giúp cho đứa trẻ trong ta nhận biết bản thân tốt hơn, khả năng tập trung tốt hơn và có thể được dùng như một phương pháp để nhanh chóng giải tỏa mặc cảm tự ti. 
  7. Trị liệu bằng chánh niệm tỉnh giác. Thường xuyên và liên tục, thực tập đưa sự chú ý về nhận diện những gì đang xảy ra trên thân và tâm. Từ đó, nhận ra và dần thoát khỏi sự chi phối của những nguyên mẫu hành vi ứng xử (trên ba bình diện: suy nghĩ, cảm xúc và hành vi) đã trở thành thói quen tự động vô thức. 
  8. Trị liệu bằng âm nhạc: Âm nhạc được dùng trong rất nhiều hình thức để tạo ra những hành vi như mong muốn và gợi mở cho những nỗi niềm u uẩn vốn đã chôn kín trong lòng được giải tỏa ra. Âm nhạc giúp người ta bớt bất an, tăng conwfg giai tiếp phi ngôn ngữ và khả năng tự điều chỉnh bản thân. Trị liệu bằng âm nhạc có thể kết hợp với vệc sử dụng các nhạc cụ, giọng hát, viết nhạc và phân tích bản nhạc/bài hát đã được thân chủ sáng tác.

Đỗ Hoàng Tùng

Tham khảo:

John Bradsaw, Homecoming
Lucia Capacchione, Recovery of your inner child
Gabrielle Roth et al., Maps to Ecstasy - The Healing Power of Movement
Juliann Steinbeigle, Inner Child Expressive Therapy

Thich Nhat Hanh, Reconciliation: Healing the Inner Child
Stephen Wolinsky, The Dark Side of The Inner Child: The Next Step
Clarissa Pinkola Estés, Warming the Stone Child.

Friday, March 27, 2015

Đi tìm người yêu muôn thủa nơi đâu?

"Anh nài đi lạc" (1948) - René Magritte

Trong album "10 bài Đạo ca" của Phạm Duy, bài số 3 mang tựa đề "Chàng dũng sĩ và con ngựa vàng (Ảo hóa)", có đoạn dẫn nhập đầy ẩn dụ như sau: 
"Đưa ra hình ảnh một chàng dũng sĩ cưỡi con ngựa vàng đi tìm người yêu muôn thủa. Đi hết năm tháng, đi khắp mọi nơi, đi cho tới khi áo bào đã sờn rách, ngựa hồng đã đổi lông mà vẫn không kiếm ra người yêu lý tưởng. Thế rồi một hôm, đi qua con sông gầm sóng, ngựa vàng bỗng hóa thành người đẹp mà dũng sĩ ra công đi tìm. Thì ra, bấy lâu nay chàng dũng sĩ ngồi lên sự thực mà không biết."
Mới nghe qua, ta những tưởng chàng dũng sĩ, với khát khao "đi tìm người yêu muôn thủa", đang cầm cương điều khiển chú ngựa phi nước đại. Nhưng đó chỉ là biểu hiện trên bề mặt, trên phương diện hình tướng. Câu chuyện với tình tiết đầy kỳ ảo của Phạm Duy buộc ta phải đào sâu hơn thế.

Dưới nhãn quan tâm lý học phân tích (analytic psychology), ta có thể hiểu con ngựa ở đây biểu tượng cho nguồn sinh lực trong tâm hồn chàng dũng sĩ. Nói cách khác, con ngựa-dục vọng mới chính là cái thôi thúc chàng dũng sĩ cất bước đi tìm người tình lý tưởng. Bởi theo Marie-Louise von Franz, thì "loài ngựa biểu tượng cho một dạng sinh lực bên trong tâm hồn có thể khơi dậy suối nguồn vô thức. (Horse symbolizes a kind of domesticated vital libido which bring forth the well of unconscious.) (1) 

Qua biết bao nhiêu năm tháng đi tìm kiếm, từ hăm hở hy vọng đến tuyệt vọng buông xuôi, trước "con sông sóng gầm", cái tôi của chàng dũng sĩ mới biết chấp nhận sự thật: chằng thể "hướng ngoại cầu huyền."

Cũng chính vào lúc đó, nguồn sinh lực từ trong vô thức trỗi dậy, chàng dũng sĩ mới nhận ra sự thật: người yêu lý tưởng và bất tử vốn đã có sẵn trong lòng mình. Con ngựa vàng ở đây chính là hình ảnh tượng trưng cho nữ tính ẩn tàng trong tâm thức chàng dũng sĩ. Phần nữ tính trong người nam đó, cái tôi nữ tính đó, 
(có người dịch là "linh âm") Jung gọi đó là anima.

Nhưng không hướng ngoại cầu huyền mới chỉ là điều kiện cần, còn để cho người tình muôn thủa trong ta thức dậy, thì còn rất nhiều việc phải làm. Jung khuyên ta nên chủ động tưởng tượng ra một hình tướng cho nàng, rồi hằng ngày ngồi đối thoại với nàng (2). Aletheia Luna thì cho ta nhiều lời khuyên hơn (3). Cụ thể như sau:
  • Thực tập lắng nghe với sự quan tâm chân thành và lòng từ bi
  • Tái khám phá cái tôi cảm xúc của bạn thông qua những cử chỉ ân cần, âu yếm 
  • Nuôi và chăm sóc một vài con vật, trồng và chăm bón một vài loại cây 
  • Suy xét về nhu cầu của những người xung quanh mình
  • Bộc lộ cái tôi nữ tính qua các hoạt động sáng tạo như âm nhạc, mỹ thuật, điêu khắc, thơ ca...
  • Thực tập chánh niệm, thiền quán hay các phương pháp khác để nhận diện và thấu hiểu những cảm xúc của mình
  • Mở rộng những mối quan tâm, sở thích sao cho cái tôi nữ tính hiện diện nhiều hơn trong cuộc sống của bạn
  • Thực tập tự tìm hiểu, khám quá bản thân, để hiểu rõ hơn về nhu yếu được hiểu, được thương, được đầy đủ, được viên mãn trong mình
Đỗ Hoàng Tùng

Ghi chú:

1. Marie-Louise von Franz, Shadow and Evil in Fairy Tales
2. David Sharp, Jung Lexicon
3. Aletheia Luna, Anima and Animus: How to Harmonize Your Masculine And Feminine Energies

Thursday, March 26, 2015

Vai trò của trẻ có cha mẹ nghiện ngập


Bên cạnh việc gia đình có người nghiện rượu, tình trạng nghiện ngập của bố mẹ cũng là vấn đề không nhỏ đối với tâm lý của con cái.

Nếu gia đình bạn luôn lảng tránh vấn đề này, cho rằng tình trạng nghiện ngập đó chỉ là một thói quen xấu hay do ý chí yếu ớt chứ không phải là một căn bệnh có thể "lây lan" cho cả gia đình thì đó quả là một nguy cơ lớn vì những đứa trẻ có bố mẹ nghiện ngập sẽ phải gánh vác một trong bốn vai trò sau:

Vai trò của một anh hùng trong gia đình

Đó là một đứa trẻ hết sức ngoan ngoãn và phục tùng. Nó sẽ luôn phải tạo ra những thành tích cao nhất mà nó đạt được trong mọi lĩnh vực. Thầy cô giáo và bố mẹ không bao giờ cảm thấy "có vấn đề" nơi đứa trẻ này, thậm chí nó còn trở thành niềm tự hào của gia đình và trường học.

Thực ra, rất nhiều điều những đứa trẻ ấy phải cố gắng làm lại không xuất phát từ niềm say mê của chính nó, mà chỉ đơn giản là nó muốn được người xung quanh cổ vũ, để người ta nhận ra nó, khen ngợi nó và để có thể là đứa trẻ tốt hơn mọi đứa khác.

Với những suy nghĩ và hành động kiểu ấy, đứa trẻ sẽ có vẻ gần giồng như một người lớn tý hon: nghiêm túc, trách nhiệm và luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người xung quanh. Nó sẽ vô cùng lo lắng trước bất kỳ lỗi lầm nào của mình, với nó, điểm 8, 9 cũng đã là một thảm họa. Nó không cho phép mình sai sót vì sai sót nghĩa là không hoàn hảo. Nó hoàn toàn không cảm thấy chính giá trị của mình, phẩm chất của mình mà chỉ cảm thấy điều đó khi được người xung quanh khen ngợi. Và thế là những người lớn trong gia đình sẽ thản nhiên đặt gánh nặng trách nhiệm lên vai đứa trẻ ấy (những công việc nhà, chuyện trông nom các em nhỏ hay việc học hành...)

Khi đứa trẻ ấy lớn lên: Tinh thần sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về mọi việc và thay cho tất cả mọi người sẽ đeo đẳng suốt cuộc đời của họ. Những đứa trẻ này khi lớn lên sẽ trở thành người vô cùng "ham công tiếc việc", chúng sẽ lựa chọn những người đồng hành có cảm xúc yếu đuối, bất lực thậm chí nghiện ngập, bởi chỉ những người đó mới luôn cần sự giúp đỡ, bảo bọc nương tựa. Và khi ở bên cạnh những người như thế, họ thấy mình có ý nghĩa và cần thiết. 

Vai trò của một vật hy sinh

Đó là đứa trẻ không đủ sức mạnh và khả năng để có thể nhận được những lời khen ngợi hay sự chú ý của người lớn xung quanh. Chúng ít khi được khen ngợi vì những thành tích đặc biệt, và chẳng ai chú ý đến việc động viên chúng. Nhưng, là một đứa trẻ, chúng vẫn cần được chú ý, vì thế chúng tìm đến điều đó bằng một con đường khác: chúng xấc xược, bỏ học, đánh nhau với bạn bè. Bên trong những đứa trẻ ấy luôn chất chứa sự đau đớn và cả lòng hận thù mà chúng không thể nào điều khiển nổi. Vì thế, chúng không có sức mạnh vượt qua những khó khăn mà chúng gặp phải trên đường đi.

Những đứa trẻ này rất sợ nhìn thấy hậu quả thực sự từ những hành động của mình. Thiếu thốn sự nâng đỡ cần thiết của người lớn, chúng tìm đến một cách khác để vượt qua những khó khăn của bản thân: chúng sẽ liên kết với những nhóm người mang đến cho chúng sự giúp đỡ ấy, rất nhiều đứa trẻ dạng này sẽ là con nghiện ma túy hay rượu chè và trở thành những tội phạm.

Những hành động "có vấn đề" của những đứa trẻ - vật hy sinh - thực hiện một vai trò lớn với gia đình : nó làm người ta quên lãng sự nghiện ngập của bố mẹ. Các bậc phụ huynh có thể phải lo lắng suốt ngày với việc xử lý những chuyện của chúng thay vì giải quyết những vấn đề của chính mình. Luôn luôn họ có thể đổ lỗi lên đầu vật hy sinh tội nghiệp này và có một cái cớ tuyệt vời để tìm đến những cảm xúc tiêu cực.

Khi đứa trẻ ấy lớn lên: Cứng đầu, thù địch, luôn đổ trút mọi trách nhiệm lên vai người khác, cá tính này sẽ ảnh hưởng lớn đến tương lai họ: họ khó thành công và không có khả năng hoàn thành những trách nhiệm của mình.

Vai trò của một chú hề

Đứa trẻ có thể sắm cho mình một cái mặt nạ chú hề: nó luôn luôn rất vui vẻ, hài hước, hay đùa giỡn làm vui cho mọi người. Tuy nhiên, không phải lúc nào sự hài hước ấy cũng đúng chỗ và dần dần nó trở nên nguy hiểm với mọi người xung quanh. Đằng sau những hành động ấy của chúng là sự thiếu tự tin vào bản thân, nỗi sợ hãi xây dựng các mối quan hệ thân thiết, sợ những va chạm buồn khổ có thể xảy ra.

Đứa trẻ luôn sợ bị chế nhạo và vì thế nó quay ra chế nhạo mọi người, thậm chí chế nhạo chính bản thân và tự nghĩ rằng: "chả có gì quan trọng". Những người lớn thường phạm phải sai lầm khi nghĩ rằng với chúng đúng là "chả có gì quan trọng", dù là cười nhạo mọi người hay bị mọi người cười nhạo.

Khi bắt đầu trở thành một chú hề, đứa trẻ không bao giờ dừng chuyện đó lại được. Nếu bạn chỉ có một mình với nó, nó có thể rất nghiêm trang, nhưng chỉ cần rơi vào một nhóm bạn bè cùng tuổi là nó thay đổi ngay, bắt đầu nhạo báng người xung quanh.

Những hành động đó của đứa trẻ chính là để thoát khỏi sự căng thẳng của gia đình, để có được cảm giác thoải mái, nhẹ nhõm. Không khí gia đình càng căng thẳng, nó càng muốn "sáng tác " ra những trò hề mới để quên đi mọi chuyện. Điều đó biến thành phong cách sống của nó: khi những vấn đề nghiêm trọng xuất hiện, nó sẽ cố gắng làm dịu bớt chuyện đó bằng sự vui đùa, miễn là không phải đối diện với thực tế, không phải giải quyết chúng.

Khi đứa trẻ ấy lớn lên: Những đứa trẻ này sẽ vĩnh viễn là chú hề, chúng không bao giờ trưởng thành, chín chắn và không có khả năng xây dựng những mối quan hệ tình cảm sâu sắc

Vai trò một thiên thần bí mật

Với những đứa trẻ này, cha mẹ chúng thật thoải mái: "Dù cuộc sống có phức tạp đến đâu, chỉ cần may mắn có một đứa con như thế là đủ, chẳng phải lo lắng gì về nó, nó cứ tự lớn lên mà mình không kịp nhận ra". Đó sẽ là những đứa trẻ rất trầm lặng, rụt rè, chúng có thể ngồi một mình cả ngày với những ước mơ, tưởng tượng, không để ý đến mọi mâu thuẫn trong nhà. Nó thường có rất ít bạn bè mà có mối liên hệ mất thiết hơn với những món đồ đạc. Và, sẽ rất hiếm khi bạn phải băn khoăn với những câu hỏi như: lẽ nào nó không cần thể hiện ý nghĩ của mình? lẽ nào nó không bao giờ bất bình hay giận dữ?

Tất nhiên sự thực không phải như thế. Những đứa trẻ này cư xử như vậy chỉ vì nó luôn có cảm giác về sự hiện diện không cần thiết, không quan trọng của mình. "Chẳng ai quan tâm đến mình cả". Nó sống với tình cảm luôn sợ hãi, lo lắng rằng nếu có gì xảy ra, nó cũng chỉ có một mình trong khi cha mẹ cứ để nó sống như thế, hoàn toàn một mình, thậm chí còn tự hào về điều đó. Tài năng thực sự không bao giờ xuất hiện ở những đứa trẻ như thế, bởi chúng không chỉ không tin tưởng vào bản thân mà còn tin rằng chẳng có ai và chẳng có gì đáng quan tâm thực sự trên đời 

Khi đứa trẻ ấy lớn: Đó sẽ là những con người sống khép kín, ít có những điều thực sự cuốn hút anh ta. Trên cái nền tâm lý ấy sẽ xuất hiện những biểu hiện tiêu cực, dẫn đến những căn bệnh thần kinh khác.

Tất cả những "mặt nạ" được miêu tả trên giúp cho đứa trẻ "sống sót" trong tình cảnh mà chúng rơi vào nhưng khi trưởng thành, chúng sẽ mang những vai trò ấy vào cuộc sống của mình và không thể tự thoát ra được. Vì thế, bất cứ đứa trẻ nào trong bốn loại trên, cũng cần đến sự giúp đỡ một cách hệ thống của các chuyên viên tâm lý, điều đó còn khó khăn hơn cả việc chạy chữa thói nghiện ngập của cha mẹ chúng.


Nguồn: afamily

Saturday, March 21, 2015

Tại sao lại cần mang roi mỗi khi đến gặp phụ nữ?



(Nhân đọc một đoạn sách "Zarathoustra" của Nietzsche)

Tại sao cần mang roi mỗi khi đến gặp một người nào đó? Có thể nghĩ là để trừng trị người ấy. Nhưng cũng có thể là vì sợ sệt, cảm thấy nhu cầu tự bảo vệ. Những thuyết giảng về phụ nữ của Zarathoustra cho thấy ông nhìn phái yếu như một đe dọa. Phụ nữ là : bí ẩn, nguy hiểm (dù dưới dạng "trò chơi"), là cay đắng, là biểu tượng của tương lai vô định, là kẻ gây lo sợ, khi yêu, và cả khi thù ghét, và rốt cuộc, khẳng định phụ nữ phải quy thuận nam giới, phải bị khắc phục...

Bà già, với chút chế diễu, đã khuyên Zarathoustra nên đem theo một cây roi mỗi khi đến với phụ nữ! Thật vậy, trước một phụ nữ, Zarathoustra chẳng là gì cả, nếu thiếu cây roi. Ông chỉ là một khối lo lắng, sợ sệt. Phụ nữ vuột khỏi tầm hiểu biết của ông, như lời bà lão, và ông chỉ có một phương cách duy nhất để làm chủ cái thực tại đầy bất trắc ấy, là: bạo lực. Zarathoustra có thể thuyết giảng như một vị thánh, nhưng, trước một người phụ nữ, ông chỉ là một đứa trẻ con. Với cây roi giấu trong áo!

Đoạn văn này làm tôi liên tưởng đến vở kịch "Kẻ Ghét Người" của Molière. Nhân vật chính, Alceste, yêu Célimène say đắm, nhưng anh ta không thể đến với Célimène mà không gây gổ, dạy dỗ, thậm chí mắng mỏ, chửi bới nàng. Tất cả những gì làm cho Célimène được mọi người yêu mến, như : tính tình vui vẻ, bặt thiệp, kết giao rộng rãi, thích hưởng thụ cuộc đời, đều bị Alceste lên án mạnh mẽ. Alceste viện cớ ghen tuông, mặc dù Célimène đã nói với anh là điều ấy không những vô lý, mà còn bất xứng với tình yêu của nàng, vì nàng đã tỏ lộ rõ ràng cho Alceste biết mình yêu anh ta, mặc dù sự thú nhận ấy, theo nàng, "không dễ dàng chút nào" ...

Thái độ của Alceste biểu hiện lời khuyên của bà lão trong "Zarathoustra" của Nietzsche : anh luôn tìm đến Célimène với cây roi, và nấp sau đó để che dấu sự yếu kém của mình. Thật vậy, Alceste hoàn toàn yếu kém. Khi cảm thấy không khuất phục nổi người yêu, thì chàng bèn xuống nước năn nỉ : "thôi, em cứ giả vờ trung thành đi, anh sẽ tin điều ấy !" Célimène khước từ sự dối trá này, cho rằng như thế là tự hạ thấp gía trị của mình. Alceste, con người ưu việt, khinh bỉ mọi sự nhân nhượng, giả dối, lúc nào cũng sẵn sàng "giáo hóa" Célimène, rốt cuộc lại chấp nhận một sự giả dối, trong khi Célimène vẫn giữ nguyên phong thái và cách sống của mình, kể cả khi bị xã hội quanh nàng chỉ trích, ruồng bỏ.Trong đoạn văn này, chúng ta nhận thấy Nietzsche, triết gia của "phả hệ của luân lý", người gắn bó với "giá trị của giá trị", hơn là với chính những giá trị, đã tạo ra một bà lão, để trả lời lại những "giáo hóa" của nhà "hiền triết", vị "đạo sư" Zarathoustra !

Nguyễn Hoài Vân

Tuesday, March 3, 2015

Lược khảo nguyên mẫu anh hùng


Nhập đề


Trong một buổi nói chuyện trên chương trình TED, Candy Chang kể rằng: Khi được hỏi: “Trước khi từ giã cõi đời này, bạn muốn làm gì?” (1) Có người đã đáp rằng: “Tôi muốn thử ăn cướp.” Câu trả lời ngổ ngáo này khiến một số người bật cười, một số khác thì nhăn mặt. Tuy nhiên, dưới góc nhìn tâm lý, nó hé lộ cho ta thấy một điều đầy ý nghĩa về tâm hồn con người. Có lẽ người nói ra câu trả lời trên không phải thực sự muốn đi ăn cướp mà “thử ăn cướp” chỉ là một hình ảnh bột phát mang tính biểu tượng của vô thức cho một sự kiện hiểm nguy, kịch tính nào đó trái ngược với cuộc sống hằng ngày trôi qua đều đều, tẻ nhạt. Và đó không phải là một trường hợp ngoại lệ. Thử hỏi trong cuộc đời mình, ai trong chúng ta lại chẳng có những phút giây bồng bột, muốn làm cái gì đó anh hùng, quái dị. hay thậm chí điên khùng? Và nếu phiêu lưu, mạo hiểm không có ý nghĩa gì với chúng ta, thì tại sao hầu hết chúng ta lại thích xem các bộ phim về cuộc đời những vị anh hùng liệt nữ? Hay tại sao người ta lại cứ thích vượt qua chơi những môn thể thao mạo hiểm như leo núi, đua xe? Bởi vì chỉ có những lúc ấy người ta mới cảm thấy có một nguồn năng lượng nào đó vốn ẩn tàng trong tâm hồn bỗng nhiên được giải phóng ra, giúp con người họ trở nên tỉnh táo, sáng suốt và tràn đầy sức sống. Và khi trải qua rồi, người ta lại cảm thấy mình mạnh mẽ hơn, trưởng thành hơn. Nguồn năng lượng đó tương ứng với cái được nhà tâm lý Carl Jung gọi là nguyên mẫu anh hùng. 

Từ khái niệm “nguyên mẫu”

Khi nghiên cứu hơn 80.000 giấc mơ, Carl Jung nhận thấy có rất nhiều giấc mơ không mang tính tiểu sử cá nhân, mà lại có nội dung tương đồng với thần thoại cổ tích. Điều này khiến ông đi đến giả thuyết rằng, ngoài vô thức cá nhân như Freud đã khám phá ra, còn có cả vô thức tập thể, “một tầng cấu trúc của tâm thức con người chứa đựng những yếu tố di truyền, hoàn toàn khác biệt so với vô thức cá nhân.” “Những yếu tố di truyền ấy” chính là nguyên mẫu.

Nguyên mẫu (“nguyên”: tự ban đầu, lúc ban sơ; “mẫu”: cái có thể sinh sản, nảy nở), hay một số người còn dịch là cổ mẫu, siêu mẫu, hay nguyên tượng, siêu tượng, mẫu tượng đều bắt nguồn từ thuật ngữ “archetype”. Theo ngữ căn La-tinh, “arche” có nghĩa là cái bắt đầu, khởi đầu, hay nguyên bản; còn “type” có nghĩa là khuôn mẫu, kiểu mẫu hay mô hình. Theo Jung thì, “archetype” hay nguyên mẫu là “các hình tượng cổ xưa phát xuất từ trong vô thức tập thể.” (Ancient or archaic images that derive from the collective unconscious.) Các nguyên mẫu này thường được biểu hiện ra như là những nhân vật điển hình, những nét tính cách đặc trưng được tìm thấy trong mọi nền văn hóa. Chẳng hạn như nguyên mẫu người hùng, bà phù thủy, kẻ lưu manh, anh hề... “Đó là những chủ đề đã tồn tại rất lâu trong tâm thức tập thể (collective soul), thể hiện những khát khao, tưởng tượng, và ước vọng sâu kín nhất của tâm thức tập thể. Những đề tài này còn mãi với thời gian. Ta bắt gặp nó trong văn chương của mọi thời đại. Nó thay hình đổi dạng tùy theo từng thời kỳ lịch sử, nhưng cốt lõi của nó vẫn là một.” (2) 

Nguyên mẫu bắt nguồn từ đâu mà ra? Chữ “yếu tố di truyền” cho ta cảm giác nguyên mẫu bắc nguồn từ bản năng sinh học. Đó cũng là nhận định ban đầu của Jung. Nhưng sau này, khi chứng kiến sự kiện trùng ứng (synchronicity) của nguyên mẫu, ông đã đi đến nhận định rằng nó nằm ở khoảng giữa tâm và vật, nơi mà Jung gọi là vùng “cận tâm” (psychoid).

Và khái niệm “anh hùng”...

Nhìn chung, khái niệm anh hùng được hiểu tương đối giống nhau qua các thời kỳ lịch sử và nền văn hóa. “Heros”, từ để chỉ anh hùng theo tiếng La-tinh có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ, có nghĩa đen là canh giữ hay bảo vệ. Thần thoại Hy Lạp thì coi anh hùng thường là bán thần (demi-god), con của một vị thần bất tử và một người phàm tục. Về mặt lịch sử, trong các cuộc chiến tranh, một người anh hùng có thể xuất thân từ bất kỳ địa vị nào. Các nhân vật này, dù trong thần thoại hay lịch sử, đều đã đối mặt với nguy hiểm và nghịch cảnh, hay trong hoàn cảnh thân cô thế yếu, bằng lòng dũng cảm và ý chí kiên cường, thậm chí không ngại hy sinh thân mình vì sự lợi ích chung của dân tộc hay nhân loại. 

Ngày nay, khái niệm “anh hùng” không còn giới hạn trong thời chiến, mà còn để chỉ những cá nhân có những hy sinh, những hành động quả cảm vì người khác ngay trong thời bình, dù đó có thể chỉ là những hành động mang tính cách anh hùng chợt vụt sáng của một người bình thường. Họ thường được các phương tiện truyền thông tôn vinh là anh hùng giữa đời thường. Khi nghiên cứu về những trường hợp như thế, hai nhà tâm lý học người Mỹ Zeno Franco, Philip Zimbardo thì cốt lõi của chủ nghĩa anh hùng là cam kết của người đó với một mục đích cao quý và sự sẵn sàng chấp nhận những hệ quả của sự đấu tranh cho mục đích đó. (The core of heroism revolves around the individual’s commitment to a noble purpose and the willingness to accept the consequences of fighting for that purpose.) (2) Nhưng theo thiển ý người viết, thì đó mới chỉ là định nghĩa anh hùng trong mối tương quan với tha nhân (inter). Ta còn có có thể xem xét chủ nghĩa anh hùng dưới một góc độ khác: trong mối tương quan với chính mình (intra). 

Anh hùng là người vượt qua được vòng cương tỏa của cái tôi nhỏ bé, vốn vẫn luôn chi phối tâm thức con người. Cái tôi nhỏ bé là gì? Nó đã được nhà tâm lý trị liệu David Richo nhận diện qua bốn đặc trưng: sợ hãi (fear), bám luyến (attach), kiểm soát (control) và đòi hỏi (entitlement). Tức là, người ta luôn sợ hãi một điều gì đó, luôn bám luyến vào ai/vật gì đó, luôn muốn kiểm soát ai/vật gì đó và luôn đòi hỏi người khác/ xã hội/ cuộc đời phải chiều lòng mình. Anh hùng là người mà tâm hồn họ đã không còn vướng bận vào những điều như thế. Thế nên nhà thân thoại học Joseph Campbell mới nói: “Anh hùng là người dâng hiến cuộc đời mình cho điều gì đó lớn lao hơn chính bản thân họ.” (A hero is someone who has given his or her life to something bigger than oneself.) 

... Đến khái niệm “nguyên mẫu anh hùng”

Nhà tâm lý học phân tích James Hollis quan niệm: “Nguyên mẫu anh hùng có mặt trong tất cả chúng ta. Nó là một năng lực thiên bẩm giúp người ta huy động năng lượng đáp ứng trước cuộc sống, giúp người ta vượt qua những bóng ma tuyệt vọng và ưu uất. Sự bộc lộ của nguyên mẫu này không liên quan nhiều lắm tới những chiến công kỳ tích bên ngoài xã hội; mà nó bộc lộ ra khi người ta kêu gọi sức mạnh để đối diện với sợ hãi, đau đớn và mong muốn chui vào vỏ ốc." (3)

Nói một cách đơn giản, thì nguyên mẫu anh hùng là tiềm năng trở nên anh hùng trong mỗi tâm hồn chúng ta, là những chủng tử (hạt giống) của “dòng máu anh hùng” vốn có sẵn trong tâm địa (mảnh đất tâm thức) của chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, các hoạt động mà ta tham dự và các kinh nghiệm mà ta trải qua sẽ là những nhân duyên góp phần làm nảy nở những chủng tử ấy, giúp chúng từ vô thức trồi lên bề mặt ý thức. Ta có thể dễ dàng nhận diện ra chúng qua một số những ý tưởng và sắc thái cảm xúc rất đặc trưng. Chẳng hạn như nguồn năng lượng khuyến khích chúng ta vượt qua, chiến thắng cái tôi nhát gan và yếu đuối để trải qua khó khăn, thử thách để trở thành một người tự tin, mạnh mẽ và dũng cảm hơn. Các chủng tử ấy kêu gọi chúng ta mạo hiểm, thậm chí liều lĩnh bước vào những chuyến phiêu lưu mà cuộc đời đưa tới. Chẳng hạn như Frodo Baggins, chàng người lùn Hobbit bước vào chuyến hành trình phiêu lưu cùng chiếc nhẫn quyền lực trong tiểu thuyết Chúa Nhẫn của nhà văn J.R.R Tolkien. Hay nguồn năng lượng thôi thúc chúng ta hành động dũng cảm, cống hiến bản thân cho một lý tưởng cao đẹp vì hạnh phúc của người khác cũng là một biểu hiện rõ rệt của nguyên mẫu an hùng. Trong lịch sử, ta có thể thấy rõ tính anh hùng trong hành động sẵn sàng chấp nhận cái chết của Chúa Jesus hay Socrates.

Hành trình của người anh hùng

Sau khi nghiên cứu nguyên mẫu anh hùng trong thần thoại, sử thi và truyện cổ tích của các dân tộc trên thế giới, Joseph Campbell đã công bố tác phẩm Anh hùng muôn mặt (The Hero with a Thousand Faces) vào năm 1949. Công trình kinh điển này đã ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa xã hội phương Tây như văn chương, điện ảnh và kịch nghệ... cho tới tận ngày nay. Nhưng tại sao hết Jung, rồi đến Campbell lại phải tìm về truyện cổ tích, thần thoại? Bởi theo Jung thì: “Toàn thể khoa thần thoại có thể được coi như là một dạng phóng chiếu của vô thức tập thể.” (The whole of mythology could be taken as a sort of projection of collective unconscious.) Còn với Campbell thì: “Thần thoại là một lỗ hổng bí mật mà thông qua đó, năng lượng bất tận của vũ trụ xâm nhập vào con người.” (Myth is the secret opening through which the inexhaustible energies of the cosmos pour into human manifestation.) Ông cũng có nhận xét rất sâu sắc rằng: “Thần thoại là giấc mơ chung của cộng đồng, còn giấc mơ là thần thoại của riêng mỗi người.” (Myths are public dreams. Dreams are private myths.)


Trong các truyện thần thoại, ta thường thấy nổi bật lên các nhân vật anh hùng. Mặc dù cuộc đời của họ có thể được diễn biến theo rất nhiều cách khác nhau, nhưng theo Campbell thì hành trình của bất cứ người anh hùng nào cũng phải trải qua ba giai đoạn chính. Đó là rời quê hương, đi lưu lạc và quay trở về. Chẳng hạn như sự tích dưa hấu về người “anh hùng” Mai An Tiêm cũng đi qua ba giai đoạn như vậy. Chàng vốn xuất thân nô lệ, nhưng nhờ có tài nên được vua Hùng yêu mến, cho hưởng nhiều vinh hoa phú quý, lại gả cho con gái. Nhưng rồi do lời sàm tấu của vài viên quan hầu cận nhà vua, chàng cùng vợ bị đầy ra hoang đảo. Đây chính là giai đoạn rời bỏ quê hương. Đến đảo hoang, hai vợ chồng sống ở đảo đầy gian khó, may nhờ phát hiện ra giống dưa ăn vừa ngọt vừa mát nên làm ăn khấm khá. Quãng thời gian này tương ứng với giai đoạn lưu lạc và vượt qua khó khăn. Cuối cùng, hai vợ chồng chàng lại được đức vua gọi trở về đất liền, cho phục hồi lại chức cũ... Kết thúc có hậu này được gọi là giai đoạn hồi hương. 


Tuy nhiên, trong tác phẩm của mình, Campbell không chỉ vạch ra ba giai đoạn như trên, mà ông còn tổng kết lại những sự kiện chính trong hành trình điển hình của hầu hết các người anh hùng. Theo Campbell thì nguyên mẫu anh hùng thường hay có một xuất thân khác thường. Trong bối cảnh cuộc sống an phận thủ thường, yên bình nhưng tẻ nhạt, người anh hùng sẽ nhận được lời mời gọi bước vào cuộc sống mới mẻ, đầy thử thách và hiểm nguy. Lúc đầu, người anh hùng có thể từ chối, bởi chàng hồ nghi về chính khả năng của mình, và chàng cũng sợ hãi. Bởi nếu người anh hùng chấp nhận lời mời gọi này, thì chàng sẽ phải đối mặt với những nhiệm vụ rất gian nan, thử thách, thậm chí nguy hiểm tới tính mạng. Nhưng rồi, lắng nghe tiếng gọi từ nội tâm sâu thẳm, chàng sẽ chấp nhận bước vào hành trình phiêu lưu mà định mệnh mang tới cho mình. Thường thì, người anh hùng sẽ có kỳ duyên được các cao nhân dạy dỗ. Khi khó khăn họa nạn, chàng được bạn bè giúp đỡ, hay được những may mắn của số phận. Sau vô vàn khó khăn vất vả, có những lúc chiến thắng, cũng như những lúc thất bại. Và nếu vượt qua tất cả, người anh hùng có thể nhận được phần thưởng là kho báu vật chất hoặc tinh thần (sự phát triển tâm linh). Sau đó, họ phải quyết định xem có quay trở về quê hương hay không. Thông thường, họ sẽ gặp những khó khăn thử thách trên hành trình này. Nếu họ trở về thành công, họ có thể sẽ sử dụng kho báu của mình sẽ cải tạo, giúp thế giới trở nên tốt đẹp hơn.

Bốn cấp độ anh hùng

Ken Wilber, triết gia sáng lập học thuyết Dung Hợp (Integral Theory) cho rằng sự phát triển đạo đức của con người có thể chia làm bốn giai đoạn: vị ngã (egocentric), vị chủng (ethnocentric), vị thế giới (worldcentric) và vị pháp giới (kosmoscentric) (5). Bốn giai đoạn này phản ánh sự mở rộng của nhận thức và mối quan tâm của con người. Từ chỗ chỉ lo nghĩ tới bản thân (vị ngã), tới những người xung quanh cùng dòng giống với mình (vị chủng), tới xa hơn nữa là tất cả nhân loại (vị thế giới) và cực điểm, là tới toàn bộ chúng sinh muôn loài (vị pháp giới). (Theo Ken Wilber thì “kosmos” là thuật ngữ của Pythagore để chỉ toàn thể vũ trụ trong tất cả các chiều kích của nó như vật lý, cảm xúc, tinh thần và tâm linh. Như thế, khái niệm “kosmos” tương ứng với khái niệm “pháp giới” của Phật giáo.)



Theo Wilber thì đây là các giai đoạn tất yếu mà mỗi người sẽ phải trải qua, không có giai đoạn nào là xấu xa hay sai trái cả. Mỗi giai đoạn đều là một hệ quả tự nhiên và có quyền tồn tại. Mỗi giai đoạn đều đúng ở một mức độ nào đó, nhưng giai đoạn cao hơn thì độ đúng đắn sẽ nhiều hơn. Bao giờ giai đoạn sau cũng vừa siêu việt vừa bao hàm giai đoạn trước. Và vị pháp giới, giai đoạn thứ tư chưa phải là giai đoạn tối hậu, bởi có thể có những giai đoạn thậm chí cao hơn nhưng chưa xuất hiện.

Dưới góc nhìn của tôi, tương ứng với các cấp độ đạo đức trên là bốn cấp độ anh hùng từ thấp đến cao như sau: anh hùng việt ngã (vượt lên cái tôi), anh hùng dân/chủng tộc, anh hùng nhân loại và anh hùng pháp giới. Tiêu chí để phân cấp là mức độ vượt ra khỏi vòng cương tỏa của cái tôi. Mức độ mở rộng của “điều gì đó lớn lao” càng lớn, thì cấp bậc anh hùng càng cao. 

Anh hùng việt ngã là người đã vượt được lên cái tôi bé nhỏ của mình (vị ngã). Trước hết, đó là người mà bằng ý chí và nỗ lực phi thường đã vượt qua những thử thách, nghịch cảnh mà cuộc sống đem đến cho mình. Tự bản thân họ chính là người anh hùng trong câu chuyện về chính cuộc đời họ. Tuy nhiên, không phải chỉ có Lance Armstrong, mà bất cứ ai vượt qua được các rào cản tâm lý của mình để có thể tự tin hơn về bản thân và mạnh bạo hơn trước cuộc đời thì đều là có thể là anh hùng việt ngã cả. Chẳng hạn, một bé trai dám ở lại trong ngõ vắng để cảm nhận và vượt qua nỗi sợ bóng tối. Lòng can đảm thôi thúc đứa trẻ làm điều đó chính là biểu hiện của “dòng máu anh hùng” trong vô thức đứa trẻ. 

Ở giai đoạn phát triển cao hơn, anh hùng việt ngã là người đã bắt đầu biết cách hóa giải sự chi phối của cái tôi nhỏ bé để sống vì người khác xung quanh mình. Họ sẵn lòng làm những việc mà những người vị kỷ cho rằng “không phải phận sự của mình”. Dạng anh hùng này ta hay bắt gặp trong cuộc sống, chẳng hạn như thầy giáo Đỗ Việt Khoa một mình chống lại tiêu cực trong kỳ thi tốt nghiệp phổ thông. Hay đó có thể là các "hiệp sỹ đường phố" sẵn sàng liều mình bắt cướp cứu người, người ngụ cư trên sông chuyên vớt xác người chết đuối trôi sông, người lầm lũi đi nhặt đinh rải trên đường quốc lộ… Họ đều có cuộc đời bình dị như bao người khác, nhưng việc làm của những anh hùng thầm lặng này lại khiến ta phải kính cẩn cúi đầu tỏ lòng ngưỡng mộ. 

Anh hùng dân/chủng tộc thường là người có công kiệt xuất trong cuộc đấu tranh cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc (vị chủng), được nhân dân suy tôn và lịch sử dân tộc ghi nhận. Anh hùng dân/chủng tộc thường xuất hiện ở bước ngoặt lịch sử của dân tộc (thời đại), trở thành biểu tượng và niềm tự hào bất diệt của dân tộc. Tấm lòng của họ ôm lấy cả dân/chủng tộc. Như Nelson Mandela với người da đen là một ví dụ.

Anh hùng nhân loại thì mở rộng tấm lòng mình xa hơn khỏi giới hạn quốc gia hay dân/chủng tộc. Đó thường là người sống với những lý tưởng cao đẹp vì nhân loại nói chung như tự do, công bằng, dân chủ... Tâm hồn họ không còn bị rào cản của quốc gia, chủng tộc chi phối. Đối với họ chỉ có một gia đình duy nhất: toàn thể nhân loại. Đặc điểm nổi bật của những con người này là họ luôn là hiện thân cho những gì họ cổ suý. Thánh Gandhi, Martin Luther King và Che Guevara là ba ví dụ điển hình cho cấp bậc anh hùng này.

Anh hùng pháp giới là người đã đạt tới trạng thái vô ngã và có lòng đại bi. Người đó coi tất cả chúng sinh đều như một phần của con người mình, không có bất kỳ sự ngăn cách hay phân biệt nào. Vì vậy, mối quan tâm và hành động của người đó luôn hướng về lợi ích của muôn loài hữu tình, chứ không riêng gì loài người. Trong Phật giáo Đại thừa, những bậc như thế được gọi là Bồ-tát. Chẳng hạn như Bồ-tát Địa Tạng vời lời nguyện chừng nào còn chúng sinh trong địa ngục, chừng đó còn chưa thành Phật.

Anais Nin từng nói rằng: “Cuộc đời co hẹp hay mở rộng tương ứng với lòng dũng cảm của mỗi người.” (Life shrinks or expands in proportion to one’s courage.) Bốn cấp độ anh hùng kể trên là các giai đoạn đi từ cuộc đời nhỏ hẹp đến cuộc đời rộng mở, từ hữu hạn đến vô hạn. Đó là hành trình mà mỗi người đều phải trải qua để phát triển tâm thức của mình.


Nguyên mẫu anh hùng Thánh Gióng

Thánh Gióng là một nhân vật anh hùng tương đối điển hình trong kho tàng cổ tích Việt Nam. Nhân vật này phần nào phản ánh những đặc trưng của nguyên mẫu anh hùng trong vô thức tập thể của người Việt. Đầu tiên là hình ảnh “thằng bé lên ba tuổi rồi mà vẫn nằm ngửa đòi ăn, không biết ngồi biết lẫy, cũng không biết nói biết cười gì cả.” Gạt sang một bên bức màn huyền thoại, theo Trần Đại Sỹ thì thực ra, “Phù-đổng Thiên-vương là một võ sư đương thời. Ngài luyện võ, nên gần như không nói với ai, người đời đùa rằng ngài câm.” Trên phương diện tâm linh, HT Thích Trí Quảng cho rằng đây là hỉnh ảnh “tiêu biểu cho đời sống nội tâm, hay sức sống thiền định tiềm ẩn bên trong là sức mạnh tinh thần.” Trên phương diện phân tâm học, người viết cho rằng, “thằng bé lên ba tuổi” đó chính là biểu tượng cho nguồn năng lượng của nguyên mẫu anh hùng vốn luôn tàng ẩn trong tâm hồn của mỗi con dân đất Việt. Nó có vẻ thụ động thật đấy, im hơi lặng tiếng thật đấy nhưng đó là vì chưa đủ duyên, chưa gặp phải thời điểm thích hợp nên nó chưa thể hiện ra tiềm năng mạnh mẽ của mình. Cũng giống như người nông dân xưa, bình thường luôn hiền hậu, chất phác, sống vui vẻ mà an phận.

Theo Trần Đại Sỹ thì đến năm 24 tuổi, Phù-đổng Thiên-vương ứng lời gọi của vua đi đánh giặc Ân. Còn hình ảnh cậu bé Gióng ăn không biết no, lớn nhanh như thổi, vươn vai một cái, người bỗng cao to sừng sững, chân dài hơn trượng... trong truyện thì dưỡng như mang ý nghĩa khác. Nó biểu trưng cho sức mạnh nội lực một khi đã đủ duyên, được kích hoạt sẽ tạo nên sự biến đổi mang tính lột xác. Có lẽ chính nhờ nguồn năng lượng mạnh mẽ này của nguyên mẫu anh hùng mà nhân dân ta đã đánh bại được những kẻ thù hùng mạnh nhất trong các cuộc chiến tranh vệ quốc anh hùng.

Trần Đại Sỹ cho biết “khi hết giặc ngài lên núi Sài-sơn ẩn thân tiêu dao mây nước, tập võ” và trở thành sáng tổ của phái võ Sài-sơn. Như tâm thức tập thể của dân gian lại tạo ra một hình ảnh đẹp đẽ và huyền nhiệm hơn thế nhiều. “Sau khi đánh giặc xong, Thánh Gióng cởi giáp bỏ nón lại (trên đỉnh núi), rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời.” Nó thể hiện tinh thần vô vi của Lão tử, “làm mà không cậy công”, “xong việc rồi không ở lại". Đó đúng là tấm lòng vị tha vô ngã của vị anh hùng - bồ tát vậy. 

Sự biến thái của nguyên mẫu anh hùng

Ở các phần trên đây, chúng ta mới chỉ bàn về sự phát triển theo hướng tích cực của nguyên mẫu anh hùng. Nhưng nếu vì nhân duyên nào đó, gặp phải những điều kiện bất lợi từ chủ quan cũng như khách quan thì chúng sẽ phát triển một cách méo mó, tiêu cực. Jung cho rằng mỗi nguyên mẫu tích cực bao giờ cũng mặt trái tiêu cực, biểu hiện thành hai xu hướng: dương cương và âm nhu, được gọi là các hình thái bóng âm lưỡng cực (bipolar shadow forms). Theo Robert Moore và Douglas Gillette, hai nhà phân tích tâm lý theo trường phái Jung thì, trong trường hợp của nguyên mẫu anh hùng, hai hình thái tiêu cực là: người hung hăng và người hèn nhát. Bộ ba này được thể hiện theo dạng hình tam giác như minh họa sau đây (3).

Nguồn: Robert Moore, Douglas Gillette, King Warrior Magician Lover

Đầu tiên là dạng người hung hăng, luôn sẵn sàng làm những việc liều lĩnh để chứng tỏ bản thân mình. Họ luôn cảm thấy mình ở đẳng cấp cao hơn và có quyền lấn át những người khác. Họ thường tự huyễn hoặc về sự quan trọng và khả năng của mình, luôn nghĩ rằng những nhiệm vụ bất khả thi là để dành cho mình… Nếu có ai đó tỏ ra nghi ngờ sự ngông cuồng của họ, thì họ sẵn sàng gây hấn. Bởi sâu thẳm bên trong tâm hồn mình, dạng người này luôn cảm thấy bất an và lo sợ. Những người này thường thiếu tinh thần đồng đội. Họ sẵn sàng hy sinh lợi ích của đồng đội để đạt được những mục tiêu điên rồ của mình. Nếu họ không ý thức được vấn đề tâm lý của mình, thì họ có thể trở nên tiêu cực và nguy hiểm hơn nữa. Những kẻ bạo dâm, những tay giết người hàng loạt, những tên độc tài và chủ nghĩa phát xít trong lịch sử… đều có nguồn gốc từ sự biến thái tâm lý nói trên. Các nhà phân tâm học gọi họ là những kẻ hảo ác (sadist). Họ làm mọi việc tàn độc nhất với những người khác cũng chỉ là để chạy trốn sự hoảng loạn trong tâm hồn mình, hay đôi khi là để tìm kiếm một sự sung sướng bệnh hoạn. Vậy nên, ở một khía cạnh nào đó, dạng người mà cả xã hội ghê tởm và nguyền rủa này cũng rất đáng thương.

Ngược lại với dạng người hung hăng là dạng người hèn nhát. Đây là những kẻ không bao giờ dám khẳng khái đứng lên tranh đấu cho điều gì, thậm chí cho cả bản thân mình. Họ luôn tìm cách lảng tránh các cuộc tranh cãi, đụng độ. Thường là họ bị người khác lấn át, bắt nạt. Tuy nhiên, con giun xéo lắm cũng quằn, đến khi không chịu đựng được nữa, thì tay anh hùng bất mãn tiềm ẩn đằng sau người hèn nhát sẽ bất ngờ vùng dậy, có những lời nói và hành vi thô bạo với “kẻ thù” của mình. Mức độ biến thái cao hơn của dạng này là những người tự hành hạ bản thân mình để tìm kiếm cảm giác thoải mái hay giải tỏa, thuật ngữ chuyên môn gọi là những kẻ tự hành (masochist). Nghe thì có vẻ lạ nhưng thực ra chúng ta ra rất hay gặp dạng người này. Họ là những kẻ nghiện ngập. Đối tượng gây nghiện có thể rất đa dạng như thuốc lá, ma túy, tình dục, người yêu, công việc... Họ biết rằng những thứ đó có hại cho họ, nhưng họ vẫn không thể ngừng lại được. Và cái mặt trái của nguyên mẫu anh hùng này cứ dần đần hủy hoại cả sức khỏe lẫn tinh thần của họ. 

Nuôi dưỡng nguyên mẫu anh hùng 

Nhà tâm lý học phân tích James Hollis khuyên rằng: "Chúng ta có thể ngưỡng mộ những chiến công quả cảm, nhưng chúng ta đừng bao giờ tôn sùng các vị anh hùng. Tâm thức vẫn luôn mời gọi chúng ta tự tạo nên thành tựu của chính mình. Đây là nghĩa vụ anh hùng đang chờ đợi câu trả lời của chúng ta.” Nhưng câu trả lời ấy không thể nào tự nhiên mà đến, nếu chúng ta không biết cách nuôi dưỡng nguyên mẫu anh hùng vốn tiềm ẩn trong mình. 

Theo y khoa tâm thể phương Đông, trong con người có ba trung tâm năng lượng quan trọng là vùng đầu (hay bộ não), vùng ngực (hay trái tim) và vùng bụng dưới (hay đan điền). Tương ứng với ba trung tâm này là tiến trình ba giai đoạn tâm-sinh-vật lý chi phối mọi hoạt động của con người. Tiến trình này luôn bắt đầu từ suy tư và mường tượng, sau đó mới phát sinh cảm xúc, rồi cuối cùng sẽ biến thành hành động. Bộ ba này có mối liên kết với nhau rất chặt chẽ. Ở vùng đầu, nếu tập trung quá nhiều năng lượng sẽ thường phân tán, ảo tưởng, còn nếu quá ít năng lượng thì suy nghĩ ngây thơ, đơn giản. Ở vùng ngực, nếu thiếu hụt năng lượng thì sống hời hợt vô cảm, nếu quá nhiều năng lượng thì lại quá nhạy cảm, dễ mất kiểm soát. Ở vùng bụng dưới, nếu thiếu năng lượng thì ý chí không vững vàng, thiếu lòng dũng cảm, nếu tập trung quá nhiều năng lượng ở đây thì lại dễ rơi vào dạng hữu dũng vô mưu. Vì vậy, chỉ có sự cân bằng của ba trung tâm mới sẽ giúp cho nguyên mẫu anh hùng thăng hoa, phát triển tích cực, đúng đắn. 

- Ta hãy bắt đầu từ trí não với sức mạnh của mường tượng:

Zeno Franco và Philip Zimbardo khuyên chúng ta nên đặt ra các câu hỏi về trách nhiệm xã hội của bản thân trước các vấn đề mà mình đang phải đối diện cũng như những gì đang diễn ra xung quanh trong cuộc sống hằng ngày. Thường xuyên tự vấn lương tâm như vậy chính là cách để tưới tẩm cho những hạt giống của nguyên mẫu anh hùng trong tâm hồn bạn. Chúng sẽ kích thích trí tưởng tượng của bạn, giúp bạn mơ mộng về những điều bạn có thể làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn. Từ đó, bạn mới xây dựng được cho mình một tầm nhìn tích cực, một lý tưởng cao đẹp để không ngừng hướng tới. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết để thúc đẩy sự phát triển của hạt giống anh hùng trong tâm hồn. Trong những gian lao, thử thách, điều giúp người ta vượt lên được các giới hạn thể xác chính là những tầm nhìn, lý tưởng mà họ theo đuổi. Tấm gương những người tù cộng sản ở Côn Đảo là một minh chứng hùng hồn cho luận cứ này.

- Tiếp đến là trái tim với sức mạnh của cảm xúc:

Một bầu nhiệt huyết sôi sục là điều không thể thiếu trong trái tim của một người anh hùng. Tầm nhìn của một người càng rõ ràng, sinh động bao nhiêu thì cảm xúc của người đó sẽ càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Cảm xúc phát ra từ vùng tâm não có sức mạnh lớn lao hơn suy nghĩ thông thường rất nhiều lần. Theo nghiên cứu của viện HeartMath thì từ trường của vùng tim mạnh gấp 5000 lần so với từ trường của não bộ, còn điện trường mạnh gấp 100 lần so với điện trường của não bộ. Nếu như sức mạnh của mường tượng tạo nên một viễn cảnh để người anh hùng cố gắng vươn tới, thì sức mạnh của cảm xúc chính là động cơ thúc đẩy họ không lùi bước, kiên gan bền chí với lý tưởng của mình. Nhìn lại lịch sử Việt Nam, ta thấy rằng có lẽ chính nhờ lòng yêu nước nồng nàn đã nuôi dưỡng ý chí phản Hán phục Việt qua gần 1000 năm Bắc thuộc, để cuối cùng vào năm 931, Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán, giành lại chủ quyền dân tộc.

- Cuối cùng là đan điền với sức mạnh của nội lực:

Tâm lý và thể chất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn người hay suy nghĩ sẽ bị bệnh đau dạ dày. Ngược lại, người bị đau dạ dầy thường hay suy nghĩ lan man. Thế nên, một thân thể yếu đuối khó có thể là nơi cư ngụ của một tâm hồn cao cả. Dù có ý chí lớn lao đi nữa, nhưng nếu bạn không có sức khỏe thì cũng chỉ là một người lực bất tòng tâm mà thôi. Vậy nên, bạn cần cố gắng rèn luyện để có sức khỏe tốt. Lời khuyên của người viết là bạn nên theo đuổi một bộ môn võ thuật có sự rèn luyện tích lũy nội lực của phương Đông. Chảng hạn như Thiếu Lâm, Võ Đang, Thái Cực, Vịnh Xuân… Bởi không giống các môn thể thao phương Tây hầu như chỉ để rèn luyện cơ bắp, các môn võ trên còn rèn luyện cho người ta có được sự dẻo dai phi phường, ý chí kiên nhẫn và sự tập trung cao độ. Mà đây lại là ba yếu tố cực kỳ cần thiết đối với một người anh hùng. Tìm hiểu về cuộc đời của tổng thống Nga Putin, ta thấy ông đã có một nền tảng sức khỏe và tinh thần rất tốt nhờ nhiều năm luyện võ Judo.

Tạm kết

Ở phương Tây, khái niệm nguyên mẫu anh hùng đã trở nên tương đối phổ biến trong xã hội trong vài thập kỷ qua. Còn ở Việt Nam, còn quá ít người biết đến khái niệm này. Đó quả là một điều rất đang tiếc bởi đây là một nguồn năng lượng rất mạnh mẽ trong tâm hồn người Việt. Biểu hiện rõ nét nhất là trong văn hóa của chúng ta có truyền thống thờ anh hùng dân tộc. Đó chính là cách mà cha ông chúng ta nuôi dưỡng, thắp lửa cho nguyễn mẫu anh hùng trong tâm hồn các thế hệ con cháu. Tiếc rằng ngày nay, truyền thống này đa phần chỉ còn nặng về phần nghi lễ mà lại mất đi ý nghĩa giáo dục quý giá của nó. Chính sự thiếu hiểu biết về tầm quan trọng của việc khơi dậy nguyên mẫu anh hùng trong giới trẻ đã dẫn đến nhiều vấn đề nhức nhối đang hằng ngày diễn ra. Chẳng hạn sự thờ ơ, lãng đạm trước cái xấu, cái ác của thế hệ trẻ - một thực trạng đáng báo động trong xã hội ta, là biểu hiện của sự thui chột của nguyên mẫu anh hùng trong tâm hồn con người. Hay việc mỗi đêm, hằng trăm thanh niên quay cuồng trong các sàn nhảy, phóng xe điên rồ trên đường phố là biểu hiện của hình thái tự hành, khi họ không biết cách đối diện và giải tỏa với những vấn đề trong cuộc sống của mình. Hay việc ngày càng có nhiều đối tượng vị thành niên hảo ác với những hành vi rất manh động, táo tợn. Đa số các em nhỏ này đều là những nạn nhân của bạo hành gia đình - điều kiện tất yếu tạo nên tính hung hăng của trẻ... Thiết nghĩ đã đến lúc cộng đồng nói chung, các nhà giáo dục và các bậc phụ huynh nói riêng cần quan tâm nhiều hơn đến việc nuôi dưỡng nguồn năng lượng của nguyên mẫu anh hùng trong các thế hệ tương lai. Chúng ta phải làm sao để các bạn trẻ hiểu rằng bên trong con người họ có một vốn quý mà họ có thể khai thác để tạo nên những điều tốt đẹp, những thay đổi kỳ vĩ cho cho cuộc đời mình và mọi người xung quanh. Và thông qua hành trình đó, các bạn trẻ sẽ tìm được hạnh phúc và mãn nguyện.

Chú thích:

1. Candy Chang, Before I die

2. Zeno Franco, Philip Zimbardo, The Banality of Heroism

3. James Hollis, Under the Saturn's Shadow

4. Robert Moore, Douglas Gillette, King Warrior Magician Lover